Y Học - Sức Khỏe

Các thông tin mới nhất về y học sức khỏe như y học sức khỏe ăn uống, điều trị, thực phẩm, dinh dưỡng.

Công Nghệ Mới

Những công nghệ mới nhất trong ngành khoa học như công nghệ máy tính, các nhiên liệu mới phục vụ cho đời sống.

Bí Ẩn Thế Giới

Khoa học bí ẩn cùng các hiện tượng bí ẩn khoa học được khám phá, được giải mã.

Môi Trường

Môi trường luôn là một trong những chủ đề được quan tâm nhất ngày nay.

Gia Đình và Cuộc Sống

Cập nhật thông tin liên tục về các vấn đề thời sự, sinh hoạt, gia đình, xã hội.

Thứ Tư, 10 tháng 4, 2019

Phơi nhiễm HIV và cách xử lý

Phơi nhiễm HIV do nghề nghiệp của nhân viên y tế là tương đối rộng rãi, song chẳng hề ví như phơi nhiễm nào cũng dẫn tới nhiễm. Đây là rủi ro mà mỗi nhân viên y tế bắt buộc đối diện.

Bác sĩ Nguyễn Tấn Thủ với phong phú năm chuyên dụng cho trong lĩnh vực phòng chống và điều trị HIV cho biết, ngay lúc này, phơi nhiễm do nghề nghiệp của nhân viên y tế là hơi phần đông, song không hề trường hợp phơi nhiễm nào cũng dẫn tới nhiễm. Đây được xem là 1 rủi ro mỗi nhân viên y tế cần chống chọi với trong suốt thời gian phục vụ của mình.

Trên thực tế, phơi nhiễm do nghề nghiệp của nhân viên y tế là khá phổ biến
bây giờ, phơi nhiễm do nghề nghiệp của nhân viên y tế là tương đối nhiều kiểu. (Ảnh minh họa: HIV).

Phơi nhiễm mang HIV (exposure) được hiểu là tình huống với giao tiếp có dịch tiết mang khả năng với mầm bệnh HIV. 1 Tình huống được xem là phơi nhiễm có nguy cơ nên thỏa mãn 2 yếu tố:

  • Dịch tiết có nguy cơ lây nhiễm, được kể đến đa dạng nhất là máu, dịch âm đạo, tinh dịch và sữa mẹ. Các dịch cơ thể Thông thường khác như mồ hôi, nước mắt, nước bọt, nước tiểu… được xem là ko mang nguy cơ lây nhiễm.
  • mang chi tiết ngõ vào: Vết thương hở, đâm xuyên da, giao tiếp vào niêm mạc (mắt, mũi, miệng, âm đạo, hậu môn…).

Do tính chất lặng thầm và nặng nề nhận thấy của căn bệnh này, đông đảo tình huống phơi nhiễm có dịch tiết của người ko rõ tình trạng huyết thanh kháng HIV đều được xem là “với khả năng chứa mầm bệnh”. Do vậy, những tình huống không thể xác minh nguồn gây phơi nhiễm như bị kim đâm ở nơi công cộng, bạn tình bất chợt... Đều được xem xét như trường hợp giao tiếp với dịch tiết của người dương tính.

Phơi nhiễm trong cùng đồng chủ yếu xoay quanh 2 tình huống. Lần đầu là phơi nhiễm tình dục khi quan hệ không sử dụng bao cao su hoặc bao cao su bị vỡ hoặc rách, bị cưỡng dâm. Sản phẩm hai là phơi nhiễm qua máu do vết thương đâm bắt buộc kim hoặc các vật sắc nhọn vứt ra những khu vực công cùng và có dính máu xem sét được.

Trong lúc đấy, phơi nhiễm do nghề nghiệp ở nhân viên y tế nhiều hơn nhiều loại. Nổi bật công việc của họ yêu cầu giao tiếp với lan rộng dịch tiết với nguy cơ hơn (dịch ối, dịch não tủy, mủ, dịch màng phổi, dịch màng bụng). Đồng thời họ lại mang tần suất tiếp xúc cao hơn qua những thủ thuật như thăm khám, tiêm chích, truyền dịch, chọc hút, phẫu thuật… buộc phải nguy cơ phơi nhiễm cao hơn.

Theo Cơ quan quản lý bệnh tật Mỹ, ước tính hàng năm ở nước này có khoảng 380.000 tình huống nhân viên y tế ở những bệnh viện bị kim đâm. Chính là chưa đề cập tới các dạng phơi nhiễm khác và các ca phơi nhiễm ở cơ sở y tế chẳng phải bệnh viện. Tại Việt Nam, những tình huống y bác sĩ đỡ sinh cho thai phụ đến độ nước ối dính ướt cả quần áo, các lần cấp cứu mà máu bệnh nhân bắn khắp người chẳng phải là hiếm gặp. Trong lúc đó xác suất nhân viên y tế mang cơ hội giao tiếp mang bệnh nhân dương tính cao hơn hẳn so với mặt bằng dân số chung.

Phơi nhiễm (exposure) là điều kiện yêu cầu để dẫn tới nhiễm (infection), mặc dù thế chưa cần là điều kiện đủ. Ví dụ 1 gia đình với người bị bệnh cúm. Trong sinh hoạt hầu hết gia đình này đều sẽ rất nhiều sở hữu tiếp xúc có mầm bệnh. Tình huống này được hiểu rõ là họ mang phơi nhiễm với mầm bệnh cúm. Dẫu thế, không hề đầy đủ thành viên trong gia đình này đều sẽ mắc bệnh cúm, điều này lệ thuộc vào mức độ tiếp xúc và sức khỏe vốn sở hữu của mỗi người.

Tình huống đó cũng giống như đối sở hữu phơi nhiễm nhiễm HIV. Các yếu tố như đường lây, số lượng virus HIV trong dịch tiết giao tiếp, miễn dịch của bản thân mỗi người đều sẽ ảnh hưởng lên khả năng chuyển từ phơi nhiễm sang nhiễm.

trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC) ước tính, nguy cơ lây nhiễm cho một lần giao tiếp mang nguồn HIV do kim đâm xuyên da vào khoảng 0,3%, dây máu vào vết thương hở hay niêm mạc dao động từ 0,1 đến 0,3%, qua quan hệ tình dục dao động từ 0,1 đến 0,5%. Bởi vậy, mang 1 lần phơi nhiễm, nguy cơ bị lây nhiễm HIV không cao. Ví như đối chiếu bệnh lây qua máu như viêm gan rất vi B thì chỉ bằng 1/100 và 1/10 so với viêm gan C.

Phơi nhiễm do nghề nghiệp ở nhân viên y tế đa dạng hơn nhiều.
Phơi nhiễm do nghề nghiệp ở nhân viên y tế phần đông hơn đa dạng.

Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm

cộng sở hữu sự vững mạnh của điều trị kháng virus bằng thuốc ARV, các nhà nghiên cứu đã thành công lúc phát minh và đưa vào ứng dụng điều trị dự phòng sau phơi nhiễm (Post - exposure prophylaxis - PEP). Đây là một can thiệp y khoa dựa vào khả năng ức chế virus HIV của thuốc ARV.

Thông tin về lây nhiễm HIV tiên phát chỉ ra rằng nhiễm HIV toàn thân không xảy ra liền mà mang 1 sự chậm trễ ngắn giữa thời gian phơi nhiễm sở hữu virus và sự ra đời của HIV trong máu. Trong thời gian “cửa sổ cơ hội” này, điều trị ARV kiên cố dự phòng nhiễm toàn thân, từ đấy giúp người này tránh khỏi tình trạng “nhiễm HIV mạn tính”.

Mô hình thí nghiệm tiến trình gây bệnh trên động vật sở hữu chủng virus SIV, họ hàng của HIV, gây bệnh trên khỉ, chỉ ra rằng, sau khoản thời gian phơi nhiễm sở hữu HIV, tế bào miễn dịch tại vị trí vào của HIV bị nhiễm trong vòng 24 giờ đầu. Tế bào bị nhiễm chuyển động tới vùng hạch kế cận trong hơn 24-48 giờ tiếp theo. Trong 5 ngày, HIV kiên cố phát hiện thấy trong máu.

do đó, nếu sử dụng ARV sớm sau phơi nhiễm dĩ nhiên dự phòng nhiễm trùng toàn thân bằng bí quyết ngăn cản sự nhân lên của HIV trong 1 vài tế bào bị nhiễm ban đầu. Sau khoản thời gian duy trì ARV trong cơ thể trong 4 tuần, các tế bào bị nhiễm ban đầu sẽ bị cơ thể đào thải do cơ chế miễn dịch tế bào, kéo theo chính là sự thải trừ đa phần HIV ra khỏi cơ thể.

1 nghiên cứu bệnh chứng vào năm 1997 cho thấy hiệu quả điều trị PEP giúp làm giảm nguy cơ lây nhiễm 81% giả dụ dùng thuốc Zidovudine. Sau đó, điều trị PEP dần được cải tiến nhằm nâng cao hiệu quả. WHO đang hướng dẫn sử dụng phác đồ 2 thuốc hoặc 3 thuốc, từ ấy nâng tỷ lệ thành công lên đến 95-99%. Hiệu quả của điều trị sẽ tối đa trong vài giờ đầu sau khoản thời gian phơi nhiễm, giảm dần theo thời gian và được cho là không có hiệu quả sau mốc 72 giờ tính từ lúc phơi nhiễm.

quy trình xử lý sau phơi nhiễm, điều trị PEP bao gồm:

Bước 1: Xử lý vết thương tại chỗ

  • Đối với tổn thương da dẫn tới chảy máu: Xối ngay vết thương dưới vòi nước chảy. Để vết thương tự chảy máu trong một thời gian ngắn mà ko nặn bóp. Rửa kỹ bằng xà phòng và nước sạch, sau đó sát trùng bằng những dung dịch sát khuẩn (Dakin, Javel 1/10, hoặc cồn 700) trong thời gian ít nhất 5 phút.
  • giả dụ phơi nhiễm qua niêm mạc mắt: Rửa mắt bằng nước chứa hoặc nước muối NaCl 0,9% liên tục trong 5 phút.
  • Phơi nhiễm qua miệng, mũi: Rửa, nhỏ mũi bằng nước đựng hoặc dung dịch NaCl 0,9 %. Xúc miệng bằng dung dịch NaCl 0,9 % đa dạng lần.

Bước 2: Báo cáo người phụ trách và khiến cho biên bản. Lưu ý nêu rõ ngày giờ, hoàn cảnh xảy ra, giới thiệu thông tin vết thương, mức độ nguy cơ của phơi nhiễm.

Bước 3: giới thiệu nguy cơ phơi nhiễm theo mức độ nông sâu của tổn thương và diện tích giao tiếp.

Bước 4: đồng ý tình trạng HIV của nguồn gây phơi nhiễm. Thông thường nhân viên y tế sẽ tư vấn cho những người bị phơi nhiễm bắt buộc kéo xét nghiệm HIV. Trong tình huống người này đã biết về tình trạng nhiễm, nên thu thập thông tin liên quan tới điều trị ARV của họ.

Bước 5: chính thức tình trạng HIV của người bị phơi nhiễm bằng xét nghiệm.

Bước 6: tư vấn cho người bị phơi nhiễm về nguy cơ nhiễm bệnh, điều trị dự phòng sau phơi nhiễm, thuốc và tác dụng phụ, quá trình theo dõi….

Bước 7: Điều trị dự phòng bằng thuốc ARV liên tục trong 4 tuần. Đầy đủ những trường hợp phơi nhiễm với nguy cơ yêu cầu được chỉ định điều trị ARV càng sớm càng phải chăng, từ 2-6 giờ tính từ khi phơi nhiễm và không quá 72 giờ. Song song có việc đánh giá tình trạng HIV của nguồn gây phơi nhiễm và người bị phơi nhiễm, tùy ví như, bác sĩ cứng cáp tiếp tục điều trị cho đủ 4 tuần hay ngưng điều trị ARV tuỳ trường hợp.

Thuốc ARV.Thuốc ARV.

Bước 8: theo dấu bằng xét nghiệm kiểm tra sau một tháng, 3 tháng và 6 tháng. Trên bình diện cùng đồng, lúc với phơi nhiễm, phải mau lẹ đang chạy xử trí vết thương tại chỗ (nếu có) theo hướng dẫn trong bước 1. Tiếp ấy nên mau chóng tiếp cận sở hữu cơ sở y tế có chuyên khoa nhiễm HIV (như bệnh viện Bệnh Nhiệt đới, bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh thành, khoa tham vấn tư vấn cùng đồng). Nếu khai thác được thông tin từ nguồn gây phơi nhiễm, phải ưa chuộng tới phác đồ điều trị ARV của họ. Các bước còn lại của công đoạn sẽ do nhân viên y tế tại cơ sở tư vấn.

những yếu tố ảnh hưởng lên hiệu quả của điều trị PEP bao gồm:

  • Sự chậm trễ tiếp cận mang ARV. Theo khuyến cáo của WHO, liều ARV lần thứ nhất buộc phải được dùng càng sớm càng thấp, trong vòng vài giờ đầu, chắc trước cả lúc mang kết quả xét nghiệm sàng lọc HIV theo giai đoạn. Càng chậm tiếp cận ARV, hiệu quả dự phòng càng giảm.
  • Sự kháng thuốc ARV của nguồn gây phơi nhiễm, vì vậy, phác đồ điều trị PEP tốt nhất nên được điều chỉnh cho thích hợp sở hữu phác đồ mà bệnh nhân đang dùng (khuyến cáo là tiêu dùng thuốc khác mang thuốc bệnh nhân đang dùng). Phác đồ ưu tiên cũng được thay đổi cho say mê với tỷ lệ kháng thuốc ARV lưu hành trong dân số. Ở Việt Nam, tỷ lệ kháng thuốc phác đồ 1 vẫn còn phải chăng, vì thế, phác đồ ưu tiên vẫn chính là phác đồ 1 cho các tình huống không rõ phác đồ ARV của nguồn gây phơi nhiễm.
  • Sự tuân thủ của người bị phơi nhiễm: đề nghị tuân thủ ARV trong suốt 4 tuần điều trị cũng như giai đoạn theo dấu sau điều trị.

Lưu ý:

  • Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm chỉ nên sử dụng trong những tình huống tai nạn bất ngờ, chứ không phải là 1 biện pháp dự phòng lâu dài.
  • khi phơi nhiễm xảy ra, tâm lý thoả thích là một chi tiết cần phải có. Tâm lý tha hồ giúp cơ thể đạt được ý muốn chất lượng hơn với thuốc, giảm thiểu ảnh hưởng và tác dụng phụ của thuốc ARV lên đời sống và sinh hoạt.

Thực tế, rất hiếm lúc ghi nhận với ví như nào chuyển đảo huyết thanh từ âm tính sang dương tính sau khoản thời gian điều trị PEP. Mặc dù hiệu quả bảo vệ ko phải là 100%, song các chuyên gia trong lãnh vực này khẳng định đây là mũi nhọn quan trọng trong công cuộc đẩy lùi dịch HIV.

Theo khuyến cáo, việc quản lý phơi nhiễm trong cùng đồng nói chung đó là quản lý hành vi nguy cơ của bản thân mỗi người. Còn quản lý phơi nhiễm trong lĩnh vực y tế được gộp chung thành các bước trong quy trình phòng ngừa phổ quát. Trong đó tiêu chí chính là xem rất nhiều dịch tiết đều là dịch tiết nguy cơ và mang thái độ chu đáo trong tiếp xúc. nên sử dụng hàng rào bảo vệ: kính, áo phòng hộ, mặt nạ y tế, găng tay. Vệ sinh tay trước và sau khi thao tác. Thực hành tiêm an toàn. Kiểm soát môi trường máu và dịch cơ thể qua công đoạn vệ sinh phòng ốc, dọn dẹp và xử trí khi có máu, dịch gây nhiễm. Xử trí những vật sắc nhọn như đầu kim, dao kéo...

0 Nhận xét:

Đăng nhận xét